Trần Nhân Tông ( 陳仁宗; 1258 – 1308), tên thật là Trần
Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha
Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt
Nam.
Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng
hoàng 15 năm. Ông là người đă thành lập Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự.
Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh
minh nhất trong lịch sử Việt Nam.
Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông,
ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh B́nh, sauđó
rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác
Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của ḍng
Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là
“Phật Hoàng” nhờ những việc này.
Ông qua đời ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1308, được an
táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ởbảo tháp
am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp
Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh
Văn Thần Vơ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.
Ông đă để lại bản di chúc dặn ḍ con cháu, cũng là
lời dặn ḍ cho muôn đời hậu thế nước Việt, gần ngàn năm
qua vẫn c̣n nguyên chân giá trị!
” Các người chớ quên
, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ , trái đạo.
V́ rằng họ cho
ḿnh cái quyền nói một đường làm một nẻo.
Cho nên cái hoạ lâu đời
của ta là hoạ nước Tàu.
Chớ coi thường
chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải.
Các việc đó ,
khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn.
Tức là họ không
tôn trọng biên giới qui ước.
Cứ luôn luôn đặt
ra những cái cớ để tranh chấp.
Không thôn tính được
ta , th́ gậm nhấm ta.
Họ gậm nhấm đất đai
của ta , lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái
tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.
Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn :
” Một tấc đất
của Tiền nhân để lại , cũng khôngđược để lọt vào tay kẻ khác
”.
Ta cũng để lời
nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu ”. |