Có một điều mai
mĩa lớn nhất của lịch sử trong thế kỷ XX, mà tới nay chắc là
nhiều nguời vẫn không ngờ tới : Đó là chính Trung Cộng mới
thật sự bị thảm bại trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai
(1960-1975) chứ không phải Hoa Kỳ, cho dù những h́nh ảnh
nhục nhă của siêu cường được lưu hành khắp báo chí
thế giới, qua chân dung của John Gunther Dean, Đại
sứ Mỹ tại Kampuchia ôm lá cờ cuốn trong túi ny lông chạy
trối chết khỏi Nam Vang hay những trực thăng bị xô xuống
biển Đông khi di tản từ Sài G̣n ra Đệ Thất Hạm Đội vào những
ngày cuối tháng 4-1975.
Thật khác hẳn với
những ǵ mà chúng ta đă đọc được trong hầu hết sách báo cộng
sản hay tây phương phổ biến từ trước tới nay luôn đề cao tới
t́nh đồng chí đồng rận, sông liền sông núi liền núi giữa hai
nước Trung-Việt, mặt thật chỉ là những huyền thoại dơm lấy
vải thưa che mắt thiên hạ mà thôi. Đây là câu chuyện lịch
sử bi thảm nhất mà thượng đế đă dành cho số kiếp và
thân phận dân tộc Việt, khiến cho nước ta phải có
chung biên giới với Tàu, để chúng đời đời luôn khắc sâu
trong tim óc ‘ là nhất định phải biến VN thành một quận
huyện ‘ như đă từng làm không ngơi nghĩ từ mấy ngàn năm về
trước.
Một bí mật khác
cũng đă được báo chí phổ biến cho biết
"vào tháng 4-1972
khi Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh cầu thân với Tàu
đỏ, được Mao Trạch Đông đem công hàm bán đảo, do Hồ
Chí Minh và Phạm Văn Đồng kư năm 1958 làm bằng chứng",
để phản đối việc tàu Hoa Kỳ vi phạm lảnh hải quần đảo Hoàng
Sa của chúng (?).C̣n Kissinger th́ xảo quyện hơn, khi viết
hồi kư về chuyến đi đó, đă không hề thắc mắc hay nhắc tới
một chữ về việc Trung Cộng đ̣i
chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng-Trường Sa, dù cả
hai đều biết “ các quần đảo này của VNCH. Từ đó,
Nixon ra lệnh cho hạm đội 7 tại Thái B́nh Dương phải ở xa
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đúng 12 hải lư như Trung
Cộng đă quyết định.
Ngày 11-1-1973
Trung Cộng công khai tuyên bố chủ quyền trên toàn thể các
đảo của VN trong biển Đông. Ngày 26-12-1973 Bắc Kinh bắt đầu
thương thuyết việc khai thác dầu khí tại vịnh Bắc Việt với Ư
Đại Lợi. Tháng 1-1974 giặc Tàu xua hải lục không quân
chiếm Hoàng Sa và dù Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă trực
tiếp yêu cầu Bộ Quốc Pḥng Mỹ giúp nhưng Mỹ lại ra lệnh Hạm
Đội 7 không can thiệp, kể cả cấm vớt các chiến sĩ hải quân
VNCH lâm nan trong cuộc hải chiến trên, dù lúc đó
hai bên vẫn c̣n là đồng minh đồng đội.
Xưa nay người Tàu
luôn bị ám ảnh về sự lớn mạnh và hợp nhất của nước Việt ở
Nam phương. Sự thù hận càng thêm nung nấu và chất ngất,
trước hai biến cố lịch sử : Tháng 7-1954 VN thoát khỏi ách
đô hộ của thực dân Pháp và 30-4-1975 CSVN cưởng chiếm được
Miền Nam VN. Đó cũng là lư do từ năm 1960, dù là đồng chí
nhưng Tàu đỏ đă bố trí hơn 20000 quân dọc theo biên giới
Hoa-Lào để canh chừng VC xé rào đi chếch hướng của một tên
lính tiền phương đang làm nghĩa vụ XHCN.
Muôn đời Trung Hoa
dù ở chế đo nào, phong kiến, quân chủ. dân quốc hay cộng
sản.. th́ lập trường trước sau cũng vẫn theo đuổi hai chiến
lược cố hữu, dành cho sự ổn định và an ninh lảnh thổ của đất
nước ḿnh: Canh chừng bọn Man Di (Măn, Mông, Hồi, Tạng,
Cao Ly) ở phía Bắc và ra oai trừng phạt hay nuốt chửng các
nước nhỏ ở nam phương (Đại Việt, Lào, Chiêm Thành, Cao Mên,
Thái Lan, Miến Điện). Năm 1949 Mao chiếm được Hoa lục,
ngoài bộ mặt son phấn cách mạng vô sản đồng môn đồng chí hào
nhoáng bên ngoài nhưng thực chất vẫn theo đuổi chính sách
thực dân tự ngàn xưa, là phải t́m đủ mọi cách và cơ hội để
Hán hóa và chiếm cho được VN, luôn được người Tàu bao đời
coi như một đối thủ mạnh nhất trong vùng.
Ngược lại CSVN,
ngay từ lúc c̣n trong trứng nước vào những năm đầu thập niên
30 của thế kỷ XX cho tới đại hội đảng bất thường lần thứ 6
vào đầu tháng 10-2012, từ Hồ Chí Minh tới tập đoàn cầm quyền
Trọng-Sang-Dũng và hầu hết các chóp bu trong bộ chính trị và
trung ương đảng "đời đời biết ơn và luôn giữ sự thờ kính
với Trung Cộng". Điều này cũng không có ǵ lạ v́ hầu
hết các cán bộ lớn nhỏ của cộng đảng VN trước khi sang Liên
Xô học hỏi kỹ thuật bán nước giết dân tại Đông Phương Hồng,
đều đă trải qua thời gian huấn luyện quân sự và chính trị
tại Hoa Lục.
Ngày nay nhờ sự
bạch hoá của nhiều văn khố trên thế giới và nhất là sự tiết
lộ của Tàu đỏ, cho thấy dă tâm của Trung Cộng qua cái gọi là
‘ đồng chí XHCN hay 4 tốt 16 chữ vàng ‘ thực chất chỉ
là lợi dụng xương máu của người VN qua b́nh phong ‘ sát
cánh anh em chung ư thức hệ cộng sản ‘ , để bảo
vệ dùm biên giới phía nam của chúng. Năm 1968 sử gia Pháp
Francois Joyaux đă dựa vào tài liệu lưu trữ trong văn khố
kết luận “ sự có mặt lần đầu tiên của Mao tại hội
nghị Geneve 1954, đă chứng tỏ sự quan tâm lớn lao tới t́nh
h́nh Đông Dương thời đó của Trung Cộng. C̣n Paul
Mus một học giả Pháp chuyên nghiên cứu về VN, vào năm 1965
đă viết ‘ Sở dĩ Mao nhượng bộ Pháp tại hội nghị Geneve
1954, mục đích cũng chỉ muốn ngăn chận sự thống nhất của VN
cũng như không cho CSVN thống trị toàn thể bán đảo này ‘.
Do đó suốt thời
gian Bắc Việt xâm lăng VNCH (1960-1975), Trung Cộng luôn
luôn t́m đủ mọi cách để cắt nhỏ ba nước Việt, Miên và Lào
thành các mảnh vụn. Măi tới sau ngày 2 tháng 11-1963, khi
người Mỹ (qua tay tướng lănh VNCH) đă giết được Tổng Thống
Ngô Đ́nh Diệm, để tự do lèo lái cuộc chiến VN theo ư
ḿnh, qua các cuộc dội bom Bắc Việt 1964, ào ạt đổ hơn
nữa triệu quân vào năm 1965 giúp VNCH, cuối cùng bỏ chạy vào
ngày 30-4-1975. Chính các biến cố trên khiến cho Trung Cộng
lo sợ Mỹ sẽ chiếm Bắc Việt để làm bàn đạp giúp Đài Loan (lúc
đó là Đồng Minh của Hoa Kỳ) để tấn công mặt nam tái chiếm
nước Tàu.
Đây mới là lư do
quan trọng nhất để Trung Cộng sẳn sàng hy sinh mọi thứ,
chẳng những dồn hết nhân vật lực hổ trợ cho Hà Nội, mà c̣n
ra lệnh cho các đàn em Lào và Cao Miên cho Hồ Chí Minh sử
dụng hành lang của hai nước này tại biên giới để Bắc Việt
làm đường ṃn. chuyển quân trang quân dụng vào xâm lăng
VNCH. Tóm lại đời đời Trung Cộng vẫn coi Việt Cộng như
là một phương tiện không hơn không kém để đạt cứu cánh của
riêng ḿnh.
Măi tới cuối thập
niên 70 , quyền sinh sát toàn dân và non nước Việt vẫn nằm
trong tay đảng CS, do một thiểu số ủy viên già nua thất học
trong cái gọi là bộ chính trị VC được bầu bán từ năm 1960
gồm Hồ chí Minh, Duẩn, Giáp, Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng
Văn Hoan, Lê Đức Tho, Trường Chinh.. trong số này Hoàng
Văn Hoan và Trường Chinh theo Tàu Đỏ ra mặt. Sự tranh
dành quyền lực đảng sau bức màn đỏ rất quyết liệt sắt máu,
giữa hai phe Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh và Vơ
Nguyên Giáp, v́ được bưng bít kỹ cho nên người ngoài ít ai
biết được. Sinh thời HCM luôn coi trọng Giáp hơn Duẩn nên dù
Duẩn là bí thư thứ I của đảng nhưng vẫn là phó cho Giáp
trong quân ủy.
Lúc đầu Duẩn v́ có
lập trường đối đầu với Giáp nên ngă theo Trung Cộng. Trong
thời gian Khrushchev cầm quyền Liên Xô có chủ trương xét lại
và chống đối Tàu đỏ, đồng thời ra mặt o bế Giáp đầu đảng phe
thân Nga lúc đó, với mục đích chia rẽ nội bộ CSVN. Năm 1967
Khruchchev bị hạ bệ, Duẩn-Thọ vin vào thời cơ để tạo ra vụ
án xét lại, loại bỏ gần hết phe đảng của Giáp. Riêng Giáp
nhờ có HCM che chở nên được sống già vô tích sự tới ngày
nay.
Từ sau tháng
5-1975 mặt nạ ‘ đánh Mỹ cứu nước ‘ của CSVN đă rớt,
cũng là lúc kết thúc tṛ đu dây giữa Nga-Tàu để hưởng lợi.
Liên minh Đông Dương cũng không c̣n qua sự phá hoại của
Trung Cộng, quan hệ Việt-Hoa rạn nứt từ những ân oán cũ mới.
Cuối cùng Duẩn bỏ Tàu theo Nga gây nên cuộc chiến long
trời lở đất tại biên giới Việt-Miên-Hoa từ năm 1978-1990.
Tháng 3-1985
Gorbachev làm tổng bí thư Liên Xô, phát động chính sách
'cởi mở (glasnov) và tái cấu trúc (perestroika)' để cứu vản nền kinh tế của Nga đang trong cơn khủng hoảng v́
phải cưu mang quá nhiều ngoại viện cho các nước chư hầu
trong đó có CSVN. Đồng thời, Gorbachev c̣n nối lại liên hệ
với kẻ thù Hoa Kỳ và Trung Cộng. Trong bước đường cùng v́ bị
cả thế giới bỏ rơi ngoảng mặt, tháng 8-1986 Hà Nội tuyên bố
rút hết quân ra khỏi Kampuchia và muốn nối lại quan hệ ngoại
giao với Bắc Kinh. Trường Chinh (tạm thay Lê Duẩn mới chết,
làm quyền tổng bí thư) c̣n gửi điện văn chúc mừng quốc khánh
của Tàu đỏ.
Tóm lại sự suy sụp
của đế quốc Liên Xô vào năm 1986 cộng thêm cái chết của Lê
Duẩn, đă đưa CSVN vào ngơ cụt về ư thực hệ, kinh tế gần như
khánh tận, quân sự bị sa lầy tại Kampuchia.. Nên để cứu
đảng, cứu thân, bọn chóp bu tại bắc bộ phủ mới được bầu
trong đại hội đảng lần thứ VI (Linh, Hùng, Công, Mười,
Kiệt..) qua cố vấn của Chinh, Đồng, Thọ "quyết tâm
phấn đấu để sớm được trở lại làm đầy tớ cho Tàu".
Trong lúc đó, Trung Cộng vẫn công khai xua quân chiếm thêm
nhiều đất đai của ta tại biên giới và các đảo thuộc quần đảo
Trường Sa của VN vào ngày 16-3-1988 trước sự phản ứng lấy lệ
gần như đầu hàng giặc của chóp bu CSVN.
Tháng 4-1989 Trung
Cộng dùng xe tăng đại pháo tàn sát dă man sinh viên và dân
chúng biểu t́nh đ̣i dân chủ tại quảng trường Thiên An Môn
(Bắc Kinh). Từ cuối năm 1989-1990, Đông Đức, Đông Âu và đế
quốc Sô Viết tan ră, khối XHCN chỉ c̣n lại Tàu đỏ, Việt
Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba. Trước nổi chết gần kề, ngày
10-4-1990 bộ chính trị cộng đảng VN họp khẩn để
'nhất
trí quyết tâm bằng mọi giá' (kể cả bán nước, bán dân) được
theo Tàu để bảo vệ XHCH. Và từ đó
tới ngày nay
11-2012), cái giá máu mà dân tộc VN phải đổ ra để CSVN trả
nợ cho giặc Tàu là một phần lảnh thổ gồm đất đai, biển, đảo
và sự Hán hóa dân tộc Việt của Trung Cộng.
Đổ Mười, Lê Khả
Phiêu, Trần Đức Lương, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết,
Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang.... đă và
đang viết phần cuối trang sử nô lệ giặc Tàu mà Hồ Chí Minh
đă đề ra từ năm 1930. VN sẽ trở thành một quận huyện của
Trung Hoa như thời Bắc Thuộc. Tất cả đều là sự thật nhục nhă
và đau ḷng.
Tháng 1-1285 trước
sự xâm lăng lần thứ 2 của Mông Cổ, Đại Đế Trần Nhân Tôn đă
mời các vị bô lảo khắp nước về hội tại điện Diên Hồng (Thăng
Long) để hỏi ư kiến nên ' hoà hay chiến' với
giặc.
- Trước nhục nước nên hoà
hay nên chiến ?
- Thế nước yếu lấy ǵ lo
chiến chinh ?
Tất cả đều trả lời
'quyết chiến cho dù phải hy sinh tài sản và tính
mệnh' để bảo vệ non nước Việt. Sau đó người cả nước đều
dùng mực thích vào cánh tay hai chữ ‘ Sát Thát ‘.Nhờ
vậy mà nước ta vào thời Trần đă 3 lần chiến thắng giặc Mông
Cổ khi chúng sang xâm lăng Đại việt.
Việt Cộng ngày
nay "mọi hành động đều lén lút tự chuyện, độc tài quyết đoán". Trong khi đó trước nhục nước
"chỉ biết hèn hạ qú lụy
cắt đất dâng biên đảo cho Tàu, lập nghĩa trang, xưng tụng
đời đời nhớ ơn giặc cướp giết hại đồng bào trong trận chiến
biên giới Hoa Việt lần thứ I vào ngày 17-2-1979". Một
chế độ bạo ngược tham tàn có một không hai trong ḍng Việt
sử, th́ sớm muộn ǵ CSVN cũng bị toàn dân giựt xập và tiêu
diệt.
Sau ngày
30-4-1975, hằng năm CSVN đều tổ chức ăn mừng
'chiến thắng
Tết Mậu Thân 1968' và 'đại thắng mùa xuân 1975'. Nhưng
tuyệt đối không nhắc tới một chữ về những đau thương trầm
thống mà giặc Tàu đă gây cho Nước Việt và Đồng Bào Việt
trong cuộc chiến biên giới Hoa-Việt khởi sự từ ngày
17-2-1979 và kéo dài tới đầu thập niên 1990 mới tạm dứt sau
khi toàn bộ chóp bu VC đầu hàng Tàu đỏ.
Đă vậy VC c̣n công
khai khinh thường và hạ nhục cả nước, khi đảng cùng với
Trung Cộng rầm rộ tổ chức ăn mừng đă hoàn thành việc cắm mốc
biên giói Việt-Trung tại Ải Nam Quan vào ngày 24-2-2009.
Biên bản do Nguyễn tấn Dũng kư vào cuối năm 2008 nhưng đă
tuyệt tích v́ bị đảng ém nhẹm nên người dân không hề hay
biết một điều ǵ.
Tháng 4-2008, VC
giup Tàu đỏ tổ chức rầm rộ cuộc rước đuốc máu thế vận hội
Bắc Kinh tại Sài G̣n. Ngày 1-10-2012, VC hoan hĩ gửi điện
văn và tổ chức ăn mừng quốc khánh Trung Cộng tại quần đảo
Hoàng Sa của VN, mà giặc đă cưởng đoạt vào tháng
1-1974..Toàn cảnh bức tranh “ đời đời nhớ ơn giặc Tàu “ được
Hồ Chí Minh và CSVN khắc cột ghi tâm, nên chuyện những người
yêu nước chống ngoại xâm hiện nay tại VN bị tàn sát, tù đày,
thủ tiêu và khủng bố..cũng chẳng làm ai ngạc nhiên và khiếp
sợ, v́ bộ mặt thặt của đảng từ trên xuống dưới đă bị nhận
diện, sau khi cái gọi là “ hội nghị tự phê của đảng làn thứ
6 “ khai mạc và kết thúc vào tháng 10-2012, được các diễn
đàn “ Dân Lam Báo, Quan Làm Báo, Báo Tổ Quốc, Biển Đông “
phổ biến sâu rộng khắp hang cùng ngơ hẹp trên trái đất.
1- HỒ CHÍ MINH RƯỚC GIẶC
TÀU VỀ DẦY MĂ TỔ HỒNG LẠC :
Vừa cướp được
chính quyền vào tháng 9-1945, Hồ Chí Minh và đồng đảng đă
thực hiện ngay bước đầu lừa đảo dân tộc và thế giới bằng xảo
thuật đưa quân Pháp (mới vào Sài G̣n thay quân Anh-Ấn) ra
Bắc thế chân quân Trung Hoa đang giải giới quân Nhật tại
đây. Như Trường Chính lúc đó là nhân vật thứ 2 trong cộng
đảng VN sau HCM đă viết ‘ Pháp ra Bắc thế quân Trung Hoa
của tướng Lư Hán về nước là mối lợi lớn cho đảng ta, rănh
tay tiêu diệt các đảng phái và lực lượng quân sự của Người
Việt Quốc Gia. Pháp ra Bắc tất nhiên phải kư kết và điều đ́nh
với đảng ta. Đó là một công nhận và thắng lợi quốc
tế. Pháp tới đây không sớm th́ muộn cũng gây hấn và tấn
chiếm lại miền Bắc. Đây là cơ hội để đảng ta đoạt quyền lảnh
đạo cả nước trong Mặt Trận Việt Minh chống Tây, mộr cách
danh chánh ngôn thuận ‘.
Và mọi thu xếp
được trôi chảy như kế hoạch của Hồ. Ngày 6-3-1946 Việt Minh
và Pháp kư hiệp ước Sơ Bộ, theo đó Pháp thừa nhân nước VN
Dân Chủ Cộng Ḥa của Hồ và đảng CS. Ngày 18-3-1946 quân Pháp
của tướng Leclerc vào Hà Nội với sự tiếp đón
mừng rở thắng lợi của tập đoàn HCM trong bước đầu
'rước
quân Pháp vào đất Bắc để dầy Mă Tổ Hồng Lạc'. Một bi thảm của lịch sử trong giai đoạn này chứng tỏ tính ưu việt
của đảng Hồ, chỉ biết 'khôn nhà dại chợ' trong khi
thẳng tay bắn giết người Việt QG và để mặc cho Pháp tiến
chiếm hết miền Bắc. Cuối cùng ngày 19-12-1946 bùng nổ
cuộc chiến Đông Dương lần thứ I (1946-1954) . Đây là một
cuộc chiến mà theo nhận định của hầu hết các sử gia trên thế
giới kể cả Pháp, đều cho là không cần thiết, trước phong
trào giải phóng các dân tộc nhược tiểu, sau khi thế chiến II
kết thúc (1939-1945) đang nở rộ khắp hoàn cầu. Tại Châu Á,
các thuộc điạ của Anh, Ḥa Lan, Hoa Kỳ như Ấn Độ, Miến Điện,
Mă Lai, Singapore, Nam Dương, Phi Luật Tân.. không tốn một
giọt máu hay viên đạn, cũng đă được độc lập.
+ Đảng Hồ Rước Tàu Đỏ Vào
VN Trong Cuộc Chiến Đông Dương Lần Thứ I :
Sau khi quan hệ
ngoại giao Việt-Hoa trở nên xấu từ năm 1976, thi VC đă công
bố cái gọi là 'Bạch Thư' để gọi là 'vạch trần âm mưu bộ
mặt phản động của bọn bành trướng Bắc Kinh'. VC
viết rằng 'Tàu đỏ phải tham chiến tại VN v́ mối nguy cơ
ở mạn Nam do cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp gây
ra'. Nhưng cuối cùng VC vẫn không bao giờ dám quên ơn của
Trung Cộng đă cung cáp vũ khí và quân trang dụng cho Việt
Minh đạt được chiến thắng tại Điện Biên Phủ vào năm 1954.
Ngay từ tháng
giêng năm 1949, nh́n rơ được chiến thắng gần kề của Mao tại
Hoa Lục, nên HCM đă triệu tập Hội nghị trung ương lần thứ 6,
để chuẩn bị đón quân Trung Cộng sắp tới biên giới Hoa-Việt.
Do đó không ai ngạc nhiên khi thấy Tàu đỏ là nước đầu công
nhận chính phủ của đảng Hồ vào ngày 10-1-1950.
Rồi tức khắc Hồ
bí mật sang Tàu cầu viện và được Mao thỏa măn đủ mọi thứ
theo đơn xin. Nên từ đó
(1950) tới ngày nay, liên tiếp bao chục năm HCM cũng như
đảng cộng, phải đời đời nhớ ơn Tàu đỏ, coi ngày 10-1 như là
một trong những quốc lễ trọng đại, đánh
dấu bước đầu tiên Hồ rước voi Tàu về dầy mă Việt.
Nhưng để nhận được
viện trợ, HCM đă phải kư với TC một thỏa ước đầu tiên về
quân sự, đổi lai Mao cho Hồ tức khắc không cần hoàn trả ‘
150.000 vủ khí lấy được của Nhật và 10.000 súng carbin M-1
do Mỹ chế tạo. Tuy nhiên không có của nào là của cho
không, nhất là với đàn anh Tàu đỏ, đ̣i
hỏi HCM phải giúp Trung Cộng quét sạch biên giới Hoa Việt để
tiêu trừ dùm Mao, số tàn quân của Tưởng Giới Thạch c̣n trong
rừng nuí ' Thập Vạn Đại Sơn' thuộc tỉnh Quảng Tây. Đây là
lịnh truyền nên Hồ phải tức tốc điều động hơn 20.000 bộ đội
Việt Minh sang hành quân giúp Tàu đỏ, được che đậy bằng h́nh
thức 'huấn luyện quân sự'.
Đồng thời Mao cử
tướng Trần Canh cầm đầu một phái bộ quân sự Tàu đỏ đông đảo
tới tổng hành dinh của Việt Minh tại Việt Bắc, để trực tiếp
chỉ đạo guồng máy chiến tranh 'Việt-Pháp'. Sau đó
có thêm Vi Quốc Thanh cầm đầu đoàn 'cố vấn quân sự' và Lă
Quư Ba cầm đầu đoàn 'cố vấn chính trị' . Tóm lại qua sự
hiện diện đông đảo của cố vấn Tàu và nhiều cán bộ VC từng
hoạt động chung với Hồ tại miền Nam Hoa Lục trước đây nên
rất thông thạo tiếng Tàu. Tất cả làm thành một mạn lưới
chằng chịt 'theo Tàu' trực tiếp lănh đạo CSVN.
Do đó vào tháng
5-1950, HCM đă ra chỉ thị đặt Liên Khu Ủy Việt Bắc dưới
quyền điều động của các cố vấn Trung Cộng. Thật ra không
phải đợi tới khi Mao chiếm được Hoa Lục mới giúp đở VM mà là
hai bên đă có quan hệ từ trước . Tháng 8-1946 Tàu đỏ cho cán
bộ tuyên vận sang giúp Hồ làm công tác tuyên truyền trong
giới Hoa kiều sinh sống tại VN. Năm 1947, Mao thành lập đội
quân hơn 5000 người hoạt động tại biên giới Hoa Việt, giúp
đào tạo cán bộ Việt Minh. Mao c̣n giúp Hồ mở một cơ sở
thương mại tại Vọng Các (Thái Lan) đă đóng cửa năm 1950 khi
chuyển về Rangoon (Miến Điện), để trực tiếp mua vũ khí Mỹ
qua trung gian của Anh và Thái Lan. Số súng đạn này sau đó được gửi bằng tàu thủy
tới Bắc Việt. Đây là nguồn vũ khí quan trọng mà Việt Minh đă
sử sụng trong thời kỳ 1947-1950, trước khi Hồ chính thức
sang cầu viện Trung Cộng.
Tháng 6-1950
qua lệnh truyền của toàn quyền Tàu Vi Quốc Thanh, bộ đội
Việt Minh dưới quyền Vơ Nguyên Giáp mở chiến dịch biên giới
Việt-Hoa, kéo dài từ đông sang tây hơn 300 km. Đây là thâm ư
của Trung Cộng lợi dụng chuyển vận quân dụng tiếp tế cho VM
để bắt HCM bỏ ngỏ biên giới Hoa Việt khi quân Pháp rút khỏi
Cao Bằng. Từ đó
Tàu đỏ tự tung tự tác, lần hồi xua người vào VN và lấn đất,
coi hai nước Hoa-Việt chỉ là một, dưới quyền lảnh đạo của
Mao Trạch Đông.
Trước thất bại
nhanh chóng của quân Pháp ở Bắc Kỳ và sự bành trướng xuống
Nam Phương một cách ồ ạt lộ liễu của Trung Cộng, bó buộc Mỹ
phải nhảy vào ṿng chiến bằng cách viện trợ quân sự cho Pháp
và Chính phủ Bảo Đại vào ngày 23-12-1950. Cuộc chiến VN giữa
VM và Pháp, bắt đầu từ năm 1951 về sau có thêm TC, Liên Xô,
Đông Âu, Hoa Kỳ tham dự, đă trở thành sự đuơng đầu giữa hai
khối Đông-Tây, nên các sử gia mới gọi là cuộc chiến Đông
Dương lần thứ I (1946-1954).
Đầu Hè 1951, TC
lại kư thêm với HCM tại Nam Ninh (Quảng Tây) một thỏa ước
mới về viện trợ quân sự. Và nơi này đă trở thành một căn cứ
tiếp nhận quân viện lớn nhất của VM. Hàng hóa được chuyển
bằng xe lửa và xe ô tô tới Việt Bắc liên tục ngày đêm
không dứt. Nhưng từ năm 1952, hai bên TC và HCM bắt đầu
kư cái gọi là Hiệp Ứớc Trao Đổi Hàng Hóa. Theo đó TC cho VM
súng đạn, quân trang dụng và HCM trả lại bằng Lâm Sản (các
loại gổ quư) cùng các sản phẩm Nông Nghiệp kể cả thuốc phiện
sản xuất tại Lào và Bắc Việt.
Từ năm 1953 TC và
Việt Minh đă tiếp cận tại biên giới Việt Hoa từ Hải Ninh tới
Thượng Lào. Do đó quân viện càng thêm dễ dàng, mỗi tháng VM
nhận từ 3000 - 5000 tấn viện trợ, kể cả các loại súng đại
bác và xe vận tải. Nhiều ngàn cố vấn và quân sĩ Hồng quân
được gởi tới chiến đấu bên cạnh bộ đội VM gồm đủ quân binh
chủng. Chính Hoàng Văn Hoan là người trực tiếp chịu trách
nhiệm việc nhận lảnh tiếp liệu cũng như thương thuyết với TC
về quân viện.
Đầu tháng 12-1953
VM lập đảng ủy và bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do Vơ
Nguyên Giáp chỉ huy nhưng dưới quyền của Vi Quốc Thanh, cố
vấn quân sự của TC. Đây là một thung lũng ở phía tây Bắc
Việt sát biên giới Lào, cách Hà Nội 300 km. Trận chiến tại
đây đă chính thức bùng nổ vào ngày 13-3-1954. Theo kế hoạch
VM sẽ tấn công Pháp vào ngày 25-1-1954 nhưng Vi Quốc Thanh
nói Giáp đă có nhiều khuyết điểm khi bố trí trận địa nên bắt
HCM ra lệnh đ́nh
chỉ cuộc tấn công. Kể từ đó binh quyền hoàn toàn nằm trong
tay Thanh và TC đă thay đổi toàn bộ kế hoạch trước kia của
Giáp. Tóm lại Tàu đỏ đă dùng chiến thuật đè
người, sử dụng tới 50.000 quân tham chiến + 25.000 trừ bị,
áo đảo 13.000 quân Pháp cố thủ trong căn cứ, thật sự chỉ có
nữa quân số tác chiến được. Sau 55 ngày đêm
giao tranh đẳm máu, đúng
17 giơ 30 ngày 7-5-1954 Điện Biên Phủ thất thủ, tướng De
Castries và toàn bộ tham mưu đầu hàng, 13.000 quân lớp chết,
số c̣n lại bị bắt làm tù binh.
Ngày 20-7-1954
hiệp định đ́nh chiến Geneve được kư kết giữa Pháp và VM, có
sự tham dự của Nga, Anh và TC. Riêng Hoa Kỳ không kư vào bản
hiệp ước. Theo đó VN bị chia thành 2 miền Nam-Bắc lấy con
sông Bến Hải (Quảng Trị) tại vĩ tuyến 17 làm giới tuyến.
Ngày 10-10-1954 bộ đội VM tiếp thu Hà Nội, quân Pháp và các
lực lượng thuộc Quân Đội QGVN rút về Nam.
Sau khi VC cưởng
chiếm được toàn thể Miền Nam VN vào ngày 30-4-1975 cũng là
lúc t́nh đồng chí đồng rận giữa TC và VC rạn nứt không hàn
gắn được. Thế là mọi chuyện được che dấu từ lâu, bị hai phía
moi ra bôi bác cho thiên hạ biết. Nhờ vậy cả nước mới sáng
mắt ra 'chính HCM và cộng đảng từ năm 1949 đă rước voi
Tàu về dầy mă Việt'.
+ Hồ Lại Rước Tàu Đỏ Vào VN
Trong Cuộc Chiến Đông Dương Lần thứ II (1960-1975) :
Sau ngày chia
đôi VN tại vĩ tuyến 17 (20-7-1954), Mỹ thay Pháp đổ quân vào
VN nói là để ngăn chặn Tàu đỏ đang tiến xuống phương Nam.
Từ đó VNCH trở
thành tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á. Ngày 8-9-1954 Mỹ
thành lập tại Manila (Phi Luật Tân) Tổ chức Minh ước Liên
Pḥng Đông Nam Á viết tắt là SEATO gồm Mỹ, Anh, Pháp, Úc,
Tân Tây Lan, Hồi Quốc, Thái Lan và Phi Luật Tân, bao gồm
VNCH, Lào và Kampuchia. Ngày 7-7-1954 nội các Ngô Đ́nh
Diệm được thành lập. Ngày 23-10-1955 qua cuộc trưng cầu dân
ư, Thủ tướng Diệm trở thành vị Tổng Thống đầu tiên
của nền Đệ I Cộng Ḥa Miền Nam, thay thế Quốc trưởng Bảo Đại
bị truất quyền. Quân đội QGVN cũng chính thức trở thành
QLVNCH trong sứ mệnh giải giới và tiểu trừ các lực
lượng B́nh Xuyên (Bảy Viển), Cao Đài, Ḥa Hảo và Việt Cộng.
Giai đoạn này, sỡ
dĩ HCM phải đ́nh hoản kế hoạch xâm lăng VNCH, chỉ v́ miền
Bắc đang biến loạn về vụ "tàn sát đồng bào trong chiến dịch
cải cách ruộng đất vào năm 1955-1956" với gần nữa triệu
người dân vô tội, đều là các nạn nhân thảm tuyệt của các
cuộc đấu tố trên. Trong khi đó
tại miền Nam trong thời gian 1956-1959, Chánh phủ Ngô Đ́nh
Diệm được đánh
giá là thành công mọi mặt, kể cả vấn đề an ninh gần như khắp
lảnh thổ VNCH.
Cuối năm 1958 Lê
Duẩn từ Nam ra Bắc báo cáo t́nh h́nh, nên HCM đă mở hội nghị
TUĐ lần thứ 15 quyết tâm xăm lăng để cưởng chiếm miền Nam VN
bằng vũ lực. Chiến cuộc Đông Dương lần thứ 2 (1960-1975)
được mở đầu bằng cái gọi là 'Đồng Khởi' tại Trà Bồng
(Quảng Ngăi) và Mơ Cầy (Bến Tre). Ngày 6-1-1961 tổng bí thư
Liên Xô Nikita Khrushchev phát pháo cuộc chiến tranh giải
phóng toàn cầu, CSVN chính là tên lính xung kích mở màn cho
cuộc chiến xâm lăng VNCH qua b́nh phong Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam.
Và chiến tranh lan
rộng, CS Bắc Việt tiến hành các hoạt động khủng bố giết hại
đồng bào vô tội, mục đích
bắt VNCH phải phản ứng, để vin vào đó chụp mũ Chính quyền
Ngô Đ́nh Diệm không chịu thực thi tổng tuyển cử theo hiệp
định Geneve 1954.. nên người miền Nam (MTGPMN) phải đứng lên
chống lại. Thêm vào đó là chế độ gia đ́nh trị của nhà Ngô đă
được Hà Nội lợi dụng để xuí gịuc một số trí thức Miền Nam,
vốn đă bất mản chế độ ngay từ trước. Nên đây là cơ hội vàng
ṛng, làm sụp đổ nền đệ I Cộng Ḥa Miền Nam vào ngày
1-11-1963. Ngày nay tuy lịch sử đă sang trang và tới nay
vẫn chưa có một bản cáo trạng nào tố cáo đích danh những tên
Việt gian đă tiếp tay với giặc thù, làm cho non nước và dân
tộc Việt tới bước đường cùng sau ba mươi bảy năm bị CS Bắc
Việt thống trị.
Ngày 8-3-1965, Lữ
đoàn 9 TQLC là đơn vị bộ binh tác chiến đầu tiên đổ bộ vào
Đà Nẳng và tăng lên tới 184.000 quân vào cuối năm 1965. Theo
P.Lowe. Ed trong ' The Vietnam War' và C.Jian viết 'China
and the Vietnam Wars 1950-1975' được Trung Cộng phổ biến
gần đây cho biết, cùng thời gian Mỹ đổ quân vào VNCH th́
quân Tàu đỏ cũng dồn dập tuôn vào đất Bắc theo thỉnh cầu của
Hồ Chí Minh với Mao Trạch Đông ngày 16-5-1965. Và từ đó
tới cuối năm 1968 đă có 7 sư đoàn công binh và 16 sư đoàn
(63 trung đoàn) pháo binh pḥng không Hồng quân lo việc
pḥng thủ đất Bắc từ Thanh Hóa tơí
biên giới Hoa-Việt. Quân TC c̣n đóng
tại khu mỏ Quảng Ninh, vùng tự trị Bắc và Tây Bắc Việt cũng
như tại Yên Sở phía nam Hà Nội.
Tóm lại từ giữa
năm 1965 tới cuối năm 1968, TC đă gửi 320.000 bộ đội, công
nhân và các chuyên viên kỹ thuật đủ mọi ngành tới quân viện
cho Hà nội theo thỉnh cầu của HCM. Đây không phải là một
nghĩa vụ nhiệt thành sử dụng đấu tranh quân sự giúp Bắc Việt
thống nhất hai miền Nam-Bắc VN. Thực chất là một sự lợi dụng
máu xương người Việt của Tàu Đỏ qua CS Bắc Việt được coi như
là một phương tiện 'xác người', để đẩy người Mỹ ra khỏi
Lào và VNCH. Ư đồ trên đă do chính miệng Thủ tướng TC Chu Ân
Lai tuyên bố với Tổng thống Ai Cập Gamal Addel Nasser vào
tháng 6-1965 tại thủ đô Cairo của Ai Cập 'quân viện cho Hà
Nội để ngăn ngừa Hoa Kỳ tấn công bằng nguyên tử vào Hoa
lục..'
Và để cho Mỹ càng
lún sâu và đổ máu thêm nhiều tại chiến trường Đông Dương,
tạo an toàn vững chắc cho biên giới phía Nam Trung Hoa, Mao
Trạch Đông đă hào phóng cấp cho Hồ hơn 30.000 xe vận tải
Molotova để chuyển vận hơn 10.000 tấn quân trạng dụng xuyên
đường ṃn Trường Sơn Đông và Tây tới chiến trưồng miền Nam.
Ngoài ra Mao c̣n chỉ thị cho Sihanouk phải mở rộng các hải
cảng của Kapuchia để tàu của Trung Cộng đổ vũ khí, thực
phẩm, quân trang dụng tiếp tế cho VC.
Nhưng từ đầu năm
1968 t́nh đồng chí đồng rận giữa Tàu đỏ và Việt Cộng đă bắt
đầu rạn nứt v́ Hà Nội không muốn Bắc Kinh xen vào nội bộ hai
nước Lào và Kampuchia, lúc đó
gần như là chư hầu của VC. C̣n Trung Cộng th́ cấm CSVN liên
hệ trực tiếp với Mỹ. Cũng v́ vậy mà Mao đă ra lệnh triệt
thoái hết Hồng quân về nước vào tháng 3-1969. Cùng là đại
bịp được đào tạo chung ḷ XHCN nên Tàu đỏ đâu có lạ ǵ thói
hư tật xấu của đồng bọn. V́ vậy ngay thời đó, Trung Cộng đă
làm một con đường chiến lược từ Vân Nam tới Bắc Lào và để
20.000 quân chiếm đóng có nhiều đơn vị pháo binh pḥng không
yểm trợ.
Đạo quân này ngoài
danh nghĩa là pḥng vệ biên giới phía Nam Trung Hoa đề pḥng
sự tấn công của Hoa Kỳ, mà có ư đồ chính là để quân b́nh cán
cân lực lượng quân sự với CSVN ở Lào. Năm 1974, Chu Ân Lai
đă nói thẳng với Kissinger rằng 'quân Trung Cộng hiện diện
tại Lào với mục đích
cầm chân CSVN thống trị toàn cơi Đông Dương'. Nhưng Hà
Nội đă phá vở kế hoạch trên của TC qua việc ám sát các lănh
tụ Pathet Lào thân Tàu đỏ. Và cũng nhờ biến cố Sihanouk bị
đảo chánh năm 1970 tại Kampuchia, mà t́nh đồng chí đồng rận
giữa ba đảng CS tại Đông Dương được hợp tác lại cho tới
tháng 5-1975 mới tan ră.
Và Nga đă không
bỏ lỡ cơ hội nhảy vào trám chổ của TC, gia tăng quân viện
giúp CS Bắc Việt tạo thêm áp lực mạnh về quân sự tại Nam VN,
để chiếm ưu thế chính trị trên bàn hội nghị đang tiếp diễn
và kết thúc tại Ba Lê vào tháng 1-1973 với kết quả ‘ Mỹ
rút hết quân về nước để đổi lấy sự tái đắc cử Tổng thống kỳ
2 của Nixon. Quân CS Bắc Việt được Mỹ cho phép ở lại Nam VN
để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược’.
Chiến thắng của
QLVNCH gần kề th́ người Mỹ v́ quyền lợi riêng tư đă phá vở
bằng những điều khoản vô lư kư kết với Bắc Việt trong cái
được gọi là ‘ hiệp định ngưng bắn tai VN năm 1973 ‘.Cũng từ
đó,
VNCH tứ bề thọ địch với nội thù khắp mọi nơi kể cả chốn hậu
phương. Tàu đỏ nhân cơ hội này, đă công khai bành trướng
tham vọng chiếm đất đai của dân tộc Việt, mà khởi đầu là
Quần Đảo Hoàng Sa ngoài Đông Hải vào ngày 19-1-1974. Hải
Quân VNCH đă chiến đấu can trường gây rất nhiều tổn thất cho
Tàu đỏ nhưng cuối cùng v́ thân phận nghiệt ngă của nước
nhược tiểu nên phải đành
bỏ mất một phần quê hương cho giặc .
Rồi Tổng thống
Nixon cũng phải từ chức một cách nhục nhă vào ngày 9-8-1974
v́ vụ Watergate nhưng nội bộ nước Mỹ cũng vẫn nát bấy như
tương Tàu v́ sự mâu thuẩn càng lúc càng trầm trọng của cuộc
chiến VN. Ngày 24-9-1974 lưởng viện quốc hội Mỷ biểu
quyết ngân sách quân viện cho VNCH tài khóa năm 1975 chỉ c̣n
700 triệu Mỹ kim, khiến cho tiềm lực chiến đấu của Miên Nam
VN bị hạn chế v́ đa số phi cơ, tàu thuyền, trọng pháo trở
thành bất khiển dụng v́ thiếu cơ phận thay thế. Nên sự thất
bại của VNCH vào trưa ngày 30-4-1975 trước cuộc xâm lược của
Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế không làm sao tránh được dù sớm hay
muộn cũng thế thôi, v́ đó là hệ quă được tích tụ bởi ba yếu
tố : ‘ giai cấp lănh đạo trung ương bất tài, thái độ lừng
khừng vô trách nhiệm của người dân hậu phương và chính sách
con buôn của đồng minh Mỹ ‘.
Sau này qua các
tài liệu được giải mật, chúng ta mới thấy rơ chủ đích của
Kissinger khi soạn thảo hiệp định tháng 1-1973. Như lời Chu
Ấn Lai đă nói với đại sứ Pháp tại Bắc Kinh Etienne Manach
vào đầu năm 1973 rằng ‘ hiệp định Paris tháng 1-1973 có mục
đích
chống lại bá quyền của CSVN tại Đông Dương ‘.Chính TC đă đ̣i
hỏi Kissinger phải tạo điều khoản 20 trong hiệp định, là
phải rút hết quân ngoại quốc ra khỏi lảnh thổ Lào và
Kampuchia. Trong lúc đó Mỹ lại nhượng bộ, để bộ đội Bắc Việt
ở lại Nam VN.
Trung Cộng c̣n
thọc gậy bánh xe gây chia rẽ nội bộ giữa Bắc Việt và cái gọi
là Mặt Trận GPMN bằng cách trực tiếp viện trợ quân trang
dụng và tiền cho Mặt Trận qua ngă Cao Mên v́ từ đầu năm
1968, t́nh đồng chí giữa Tàu đỏ và Hà Nội đă rạn nứt. Và
đó là lư do trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân (1968),
Bắc Bộ Phủ đă t́m đủ mọi cách nướng hết VC miền Nam và lùa
chuột ra khỏi hang ổ, để Mỹ và QLVNCH tiêu diệt. Sau đó mới
đem cán binh miền Bắc vào thay thế để nắm trọn quyền chủ
động trong cuộc chiến xâm lược.
Cuối cùng sự kiện
CSVN từ sau tháng 5-1975 qua Lê Duẩn, đă liên hệ chặt chẽ
với Liên Xô lúc đó là kẻ thù không đội trời chung với Tàu
đỏ, tạo ra mối đe dọa trực tiếp mà Bắc Kinh chưa hề nghĩ tới
từ năm 1949-1975. Năm 1972 Mao nối được liên hệ ngoại giao
với Hoa Kỳ, tạm thời bới được mối lo Mỹ lăm le nhảy vào Châu
Á. Cuối năm 1978 trước khi xua quân xâm lược VN, Đặng Tiểu
B́nh đă sang Hoa Thịnh Đốn thỉnh ư ‘ thiên triều ‘ sau đó
mới quyết định dep ‘ con chồn CSVN ‘ qua trận chiến biên
giới Việt-Hoa ngày 17-2-1979, để bẻ bớt nanh vuốt của con
gấu Nga luôn đe dọa biên giới phía đông-đông bắc của nước
Tàu.
Trong gịng lịch
sử dựng và giữ nước, dân tộc Việt chỉ được yên ổn khi Trung
Hoa bị suy yếu v́ nội loạn và sự đe dọa của các dân tộc ở
phía Bắc. Hằng ngàn năm qua, tư tưởng bảo thủ của Tàu chẳng
có ǵ thay đổi nhất trong giai đoạn hiện tại, nước Tàu đang
tính chiếm trọn thế giới, mà VN là nạn nhân đầu tiên sắp bị
Tàu xóa tên trên bản đồ Châu Á, để trở thành một quận huyện
của giặc như quá khứ.
2 - Toàn Cảnh Bức Tranh Bán
Nước Cho Giặc Tàu Của Cộng Đảng VN Từ 1986-11/2012 :
Do những điều
kiện nghiệt ngă về địa dư và lịch sử, mà bao đời VN vẫn coi
việc chống giặc Tàu như một thứ tôn giáo trong nhân sinh
quan của người Việt.
Có thể nói nước Việt tồn tại
bao nhiêu năm cũng là bấy nhiêu năm đấu tranh máu lệ với
giặc Tàu để giành giựt sự sinh tồn. Chiến tranh đối với dân
tộc Việt là cuộc đổ máu v́ lư tưởng và bổn phận. Chiến tranh
là cơ hội để tồn vong trước sự xâm lược của ngoại bang.
Đại Đế Quang Trung
sau khi đánh đuổi mấy chục vạn quân Thanh ra khỏi bờ cơi
Việt đă viết thư gửi vua Càn Long với đại
ư 'sử dụng binh
đao vốn là điều bất đắc dĩ của thánh hiền' cho thấy người
Việt không phải là một dân tộc hiếu chiến hiếu sát. V́ vậy
'vẫn sẳn sàng đánh trả cho dù có là châu chấu đá
xe vẫn đánh'. Và trăm lần như một khi thắng trận đă muốn cầu
hoà, chứng tỏ tinh thần hiếu ḥa tự chế của người Việt,
thắng không vênh váo kiêu căng, c̣n bại không hèn hạ cúi đầu
khuất phục trước kẻ thù.
Nhưng CSVN th́
trái lại chỉ biết 'khôn nhà dại chợ', chỉ biết giết hại
đồng bào để tranh quyền đoạt lợi. Đến khi non nước nguy biến
trước sự xâm lược của ngoại bang, th́ cả lũ lớn bé lại kéo
sang Tàu, để dâng đất bán biển cho kẻ thù. Tất cả toàn cảnh
bức tranh 'bán nước' của bè nhóm lảnh đạo VC sau bức màn
nhung đẳm máu, giờ đă được phơi bày trước sự khinh bĩ của cả
thế giới và người dân trong ngoài nước. Sự kiện Lê Khả Phiêu
khoe giàu sang tột đỉnh hay VC xây mồ yên mă đẹp và ca tụng
công đức của giặc Tàu hoặc hành động điên rồ của Nguyễn tấn
Dủng khi công khai cỏng giặc Tàu vào tận miền Nam Cao nguyên
Trung Phần, đă minh chứng giờ thứ 25 của những con thú điên
cố vùng vẫy gở gạc trước khi đền tội.
Sau khi Lê Duẩn
chết, dù phe đảng của Lê Đức Thọ đang mạnh nhung v́ lúc đó
đảng cần phải quay lại với Trung Cộng để sống c̣n. Bởi vậy
Trường Chinh thuộc phe thân Tàu, được tạm thời làm tổng bí
thư thay Duẩn vào ngày 14-7-1986 theo lệnh của Nga Sô.
Tháng 12-1986 đại
hội VI được triệu tập, bầu Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) làm
tổng bí thư, Phạm Hùng là thủ tướng (Kiệt thay khi Hùng chết
năm 1987 sau đó là Đổ Mười từ tháng 6-188) và Vơ Chí Công chủ tịch nhà nước.
Riêng Chinh, Đồng và Lê Đức Thọ đều về hưu nhưng vẫn giự
chức ‘ cố vấn tối cao ‘ trong đảng và bộ chính trị, c̣n Lê
Đức Anh làm bộ trưởng quốc pḥng. Năm 1989 TC tàn sát dă man
sinh viên và đồng bào tại Thiên An Môn được coi như kim chỉ
nam để đảng CSVN rập khuông theo đường lối cứng rắn và đàn
áp chính trị.
Từ đây các chóp
bu trong đảng quyết tâm bằng mọi cách kể cả ‘ nhường đất bán
biển, chấp thuận Han hóa, mở khẩu xoá làn ranh biên giới cho
giặc ‘ để được trở lại làm chư hầu cho Tàu đỏ. Và để chứng
minh sự thành tâm sám hối, trong đại hội VI 1986 , đảng đă
nghị quyết 'đổi mới tư duy' là việc ra lệnh bỏ câu
'Trung Cộng là kẻ thù trực tiếp và là kẻ thù nguy hiểm nhất' trong lời mở đầu của Điều Lệ Đảng. Dịp này, các tên giáo gian và
nằm vùng tại VNCH trước tháng 5-1975 như Phan Khắc từ, Thích
Minh Châu, mụ Ngô Bá Thành được đảng cho vào làm nghị gật
tại quốc hội bù nh́n. C̣n Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát,
Nguyễn thị Định cũng được mang hàm phó chủ tịch nhà nước
ngồi chơi xơi nước, không khác ǵ những h́nh nộm, mặt nạ hay
các món trang sức rẽ mạt.
Đại hội VI
(1986-1991) ngoài thành tích đổi mới kinh tế theo định hướng
XHCH để tạo thêm đặc quyền đặc lợi cho cán bộ, bộ đội, công
an và tư bản đỏ làm giàu thêm nhờ than nhũng và ăn cắp của
công. Tháng 7-1987 hội nghị trung ương đảng họp và ban hành
nghị quyết số 2 cấm 'QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VN KHÔNG ĐƯỢC
ĐỤNG CHẠM VỚI QUÂN TÀU ĐỎ'. Lệnh này được giữ kín măi
tới ngày 28-1-1990 báo Nhân Dân mới đăng tải.
Từ năm 1988,
t́nh đồng chí giữa VC và Nga Sô, Đông Âu càng trở nên khó
khăn v́ tiền viện trợ đă bị cắt giảm. Trong lúc cuộc đổi mới
kinh tế mới vừa chập chững, mức sản xuạt lương thực tŕ trệ
khiến nạn thất nghiệp càng gia tăng v́ Hà Nội cắt giảm quân
số. Thừa nước đục thả câu, Tàu đỏ đánh bồi thêm để cho VC
phải qú gối cúi đầu xin xơ làm lăi đầy tớ cho chúng. TỪ
14-16/3/1988 Tàu đỏ tấn chiếm đảo Fiery Cross trong quần đảo
Trường Sa đang thuộc chủ quyền VN. Trận hải chiến đă khiến
cho 77 bộ đội chết thảm, trước sự bất lực của đảng và không
một lời phản ứng của Nga Sô cũng như LHQ.
Những biến cố chết
người kể trên làm giao động hốt hoảng tới đứng tim bọn chóp
bu lớn nhỏ trong đảng VC, nên đảng đă hop khẩn ngày
10-4-1990 với Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào DuyTùng, Đồng
Sĩ Nguyên.. đều nhất trí kết tội Mỹ đă gây ra
'diễn biến
Ḥa b́nh' tại Đông Âu, Đông Đức và Sô Viết. Do đó đảng nghị
quyết về nhu cầu cấp bách phải 'THEO TÀU' để cứu nguy
cho XHCN, bất chấp những lời khuyến cáo như ‘ TC chỉ lấy lợi
ích của dân tộc ḿnh là chính, chứ chẳng bao giờ thèm nghĩ
tới t́nh đồng chí XHCN. Bởi vậy dù VN có muốn ḥa hoản th́
chỉ là ảo tưởng mà thôi, đối với một láng giềng trước sau
chỉ muốn tiêu diệt dân tộc Việt ‘.
Tóm lại dù Tàu đỏ
đă thẳng tay tàn sát cũng như tàn phá đất nước VN trong trận
chiến biên giới Việt-Hoa ngày 17-2-1979 và liên tiếp những
năm sau đó.
Tại Biển Đông, TC cướp chiếm Hoàng Sa và nhiều đảo khác
thuộc quần đảo Trường Sa của VN qua trận hải chiến năm 1988.
Nhưng mai mĩa thay khi Lê Đức Anh được cử làm bộ trưởng quốc
pḥng tại tại hội VI, đă đem 'quân đội nhân dân
VC' đầu
hàng Tàu đỏ, mặc dù lúc đó sự giao hảo giữa hai nước vẫn chưa thông. Anh c̣n bắt xuạt
bản cuốn từ điển Việt-Hoa để bộ đội ‘ cu’ học .
Trong lúc Tàu đỏ
gặp nhiều khó khăn quốc tế sau vụ tàn sát Thiên An Môn, các
chóp bu VC đă không biết vin vào thời cơ này để lấy lại thế
quân b́nh ngoại giao và uy tín của quốc gia. Trái lại bọn
đầu lănh già nua bảo thủ tại Bắc Bộ Phủ lúc đó
như Linh, Mười, Anh.. chỉ biết cúi đầu tuân phục giặc để
được chủ củ sớm cho làm đầy tớ trở lại. V́ thế vào ngày
29-8-1990 Linh và Mười, kể cả Phạm Văn Đồng, đă ngoan ngoản
từ Hà Nội sang Thành Đô để gặp Giang Trạch Dân và Lư Bằng
nhận lệnh của thiên triều.
Bổn cũ tiếp tục
soạn lại qua các lần đại hội đảng kế tiếp với Manh, Lương,
Khải, Triết rồi Trong, Sang, Dũng..Tất cả đều theo đúng mẫu
mă khuôn rập đă có sẳn từ thời Hồ Chí Minh của mấy chục năm
về trước ban truyền "đời theo Tàu và nhớ ơn thiên triều".
Cho nên việc các người trẻ trong nước từ Cù Huy Hà Vũ, Bùi
Hằng..cho tới Điếu Cầy, Anh Ba Sài G̣n, Tạ Phong Tần, Việt
Kang, Trần Vũ An B́nh, Nguyễn Phương Uyên..chống giặc Tàu
cướp nước Việt, bị đảng đàn áp khủng bố..xét cho cùng th́
cũng chẳng có ǵ mới mẽ và ghê gớm, để đảng có thể khuất lấp
những tội ác như núi Thái, biển Đông..mà đồng bào Việt và
thế giới càng biết thêm nhiều chuyện động trời của
Trọng-Sang-Dũng, sau khi hội nghi lần thứ 6 ǵ ǵ đó của
trung ương đảng VC đă kết thúc vào tháng 10-2012.
Từ Xóm Cồn Hạ uy Di
Đầu tháng 11/2012
MƯỜNG GIANG |